Ung thư đại tràng có đáng sợ?
Bệnh ung thư đại tràng được tầm soát ở những người ghép thận, bệnh to đầu chi, những thành viên trong gia đình có người mắc căn bệnh này hay bệnh viêm ruột. Bên cạnh đó, bệnh còn có thể được chẩn đoán từ giai đoạn rất sớm khi khối u mới chỉ ở lớp niêm mạc và xâm lấn xuống một phần lớp hạ niêm mạc.
Yếu tố nào ảnh hưởng đến sự mắc bệnh?
Hiện nay, trên thế giới cho thấy tỷ lệ ung thư đại tràng cao nhất ở Úc, New Zealand, châu Âu, Bắc Mỹ, thấp nhất ở Ấn Độ và Trung Á. Sự khác biệt này là do chế độ ăn và môi trường bên cạnh yếu tố gen.
Bên cạnh đó, kinh tế kém phát triển cũng là yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư đại tràng. Tỷ lệ ung thư đại tràng có thể cao hơn 30% ở đối tượng kinh tế kém nhất so với đối tượng giàu nhất.
Yếu tố hành vi có thể thay đổi được: lười hoạt động thể chất, ăn uống không lành mạnh, hút thuốc, béo phì là những yếu tố đóng góp vào việc khởi phát bệnh.
Khối ung thư đại tràng được phát hiện qua nội soi
Tuổi cao là yếu tố nguy cơ phát triển bệnh. Thường bệnh ít gặp ở tuổi dưới 40. Tuy nhiên tỷ lệ tăng cao ở độ tuổi 40-50, và tỷ lệ tăng cao hơn cho mỗi 10 tuổi sau đó.
Các dấu hiệu có thể nhận biết được
Theo y văn thế giới, ung thư đại tràng được xác định là giai đoạn sớm khi khối u mới chỉ khu trú ở đại tràng:
Giai đoạn rất sớm: khối u mới chỉ ở lớp niêm mạc và xâm lấn xuống một phần lớp hạ niêm mạc. Nếu phát hiện sớm có thể can thiệp cắt qua nội soi đại tràng.
Giai đoạn sớm: khối u xâm lấn qua lớp hạ niêm mạc, xâm lấn tới lớp thanh mạc (lớp áo ngoài của đại tràng). Giai đoạn này vẫn còn có thể phẫu thuật được, tỷ lệ sống trên 5 năm có thể tới 90%.
Phụ thuộc vào sự phát triển của khối u trong lòng đại tràng hay xâm lấn sang cơ quan lân cận mà chúng ta có thể phát hiện được vị trí của ung thư đại tràng. Nếu là đại tràng phải: phân thường lỏng, toàn thân thường mệt nhiều, suy nhược, thiếu máu. Nếu là ung thư đại tràng trái: thường có biểu hiện hội chứng Koenig (đau, chướng, sôi bụng, khi trung tiện được thì đỡ) kèm theo phân táo lẫn nhày và máu sẫm màu hoặc máu tươi bọc lấy phân. Nếu là ung thư trực tràng: thường thay đổi thói quen bài tiết phân (giả lỵ, giả ỉa chảy), mót rặn, phân nhày máu sẫm hoặc máu tươi, đôi khi phân nhỏ như bút chì hoặc phân dẹt
Đôi khi các triệu chứng của rối loạn tiêu hoá cũng dễ bị nhầm lẫn với biểu hiện của ung thư đại tràng. Tuy nhiên, nếu bạn hay người thân có biểu hiện như trên, kéo dài hơn 5-7 ngày, không đỡ khi dùng thuốc kháng sinh thông thường thì nên đi khám sớm.
Phát hiện chính xác bệnh thế nào?
Hiện nay, việc chẩn đoán sớm ung thư đại tràng ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn do đa số nhận thức của người dân còn rất thấp và chưa có điều kiện tiếp xúc với các phương tiện chẩn đoán sớm (ít có bệnh viện tuyến huyện có máy soi đại tràng và bác sĩ nội soi đại tràng), phương pháp chụp X-quang đại tràng, cắt lớp vi tính ổ bụng không có ý nghĩa chẩn đoán sớm. Các phương pháp xác định bệnh bao gồm:
Soi đại tràng: là phương pháp hữu hiệu nhất, giúp phát hiện các khối u ở kích thước cỡ vài milimet, hoặc các bất thường khác của đại tràng như polyp đại tràng, túi thừa, các tổn thương loét, viêm do nhiễm khuẩn…
Xét nghiệm máu trong phân: khối u đại tràng thường có hiện tượng hoại tử, chảy máu, do đó trong phân thường có hồng cầu (xét nghiệm này cũng ít ý nghĩa ở giai đoạn sớm).
Xét nghiệm các dấu ấn ung thư: bao gồm các dấu ấn CEA, CA 19-9, là 2 dấu ấn thường được sử dụng trong chẩn đoán ung thư đại tràng.
Các xét nghiệm khác: chụp X-quang ổ bụng, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ, chụp PET… chỉ có giá trị đánh giá giai đoạn bệnh, mà ít ý nghĩa trong chẩn đoán bệnh, đặc biệt giai đoạn sớm.
Những ai cần tầm soát bệnh ung thư đại tràng?
Thành viên trong gia đình bị ung thư đại tràng có tính di truyền, cho đến cá nhân hoặc gia đình có tiền sử ung thư đại tràng hoặc bệnh nhân bị bệnh viêm ruột (bao gồm viêm loét đại trực tràng và bệnh Crohn’s).
Hội chứng ung thư đại tràng di truyền: do bất thường về gen, ở trên nhiễm sắc thể trội, bao gồm 2 hội chứng: polyp tuyến gia đình và hội chứng Lynch. Đặc biệt gia đình có bệnh nhân bị ung thư đại tràng khởi phát ở tuổi trẻ, bị chủ yếu ở đại tràng phải, thậm chí ở độ tuổi 20, tuổi trung bình là 48 tuổi.
Các bệnh khác: bệnh nhân chiếu xạ ổ bụng, bị to đầu chi, bệnh nhân ghép thận.
BS. Lê Xuân Thắng